Nhiều vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng trong cùng một vụ án dân sự
Trong thực tiễn xét xử, nhiều vụ án dân sự bị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy bản án sơ thẩm, do Tòa án cấp sơ thẩm không đưa đầy đủ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ. Đây là nguyên nhân phổ biến dẫn đến hủy án được lặp đi lặp lại rất nhiều lần, có vụ việc khi nhìn vào tài liệu, chứng cứ Thẩm phán Tòa án cấp sơ thẩm có thể nhận diện ra ngay khi đánh giá tài liệu chứng cứ do đương sự cung cấp, nhưng vẫn để xảy ra vi phạm. Điển hình thông qua vụ án sau:
Năm 1993 ông Nguyễn Văn M (ông M) mua của ông Mai Văn B (ông B) diện tích đất 363,05m2 (đo đạc thực tế 457m2) thuộc một phần thửa 428 nằm liền kề với đất nhà ở của gia đình ông M. Hai bên có làm giấy tay ghi ngày 7/11/1993 (giấy tay ghi ông B cùng con gái tên Mai Thị C chuyển nhượng đất cho ông M). Do diện tích không đủ điều kiện tách thửa nên ông B vẫn đứng tên toàn bộ thửa đất số 428, tờ bản đồ số 4, tổng diện tích 3.985m2 bao gồm diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông M. Ông B đã giao cho ông M quản lý sử dụng diện tích 457m2 đất từ năm 1993. Ngày 02/6/2014, ông B lập hợp đồng chuyển nhượng diện tích còn lại của thửa đất 428 cho ông Tô Văn B (ông B1) tại Văn phòng công chứng C. Ông B chỉ giao cho ông B1 phần đất ruộng (ông B cho ông B1 thuê - ông B1 đã đào vuông nuôi tôm trước đó), phần đất đã chuyển nhượng cho ông M thì ông M san lấp gò trồng cây. Ông M cho rằng việc ông B bán đất cho ông M thì ông B1 biết rõ. Ngày 17/6/2014, UBND huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 428, diện tích 3.985m2 cho ông B1 đứng tên trong đó có phần diện tích đất mà ông B đã chuyển nhượng cho ông M năm 1993. Ông M khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 02/6/2014 giữa ông B và ông B1 được công chứng tại Văn phòng Công chứng C; hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất số 428, diện tích 3.986m2, do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 17/6/2014 cho ông B1.
Bị đơn ông B xác định năm 1993 ông B có bán cho ông M diện tích đất 363,05m2, có lập "Tờ mua bán đất" ngày 7/11/1993 thuộc thửa 428. Ông B đã giao đất cho ông M quản lý, sử dụng đến nay. Phần diện tích còn lại thửa 428 ông B bán cho ông B1 năm 2014. Trước khi bán thì ông B có thông báo cho ông B1 biết phần diện tích đất ông B đã bán cho ông M nên không tính tiền đối với phần này, sau này ông B1 không được tranh chấp với ông M, ông B1 cũng đồng ý. Nay trước yêu cầu khởi kiện của ông M, ông B có ý kiến nếu trường hợp pháp luật cho phép tách thửa được thì ông B đề nghị Tòa án xét xử tách thửa cho ông M. Còn không tách thửa được thì đề nghị ông B1 phải cho ông M tiếp tục quán lý, sử dụng diện tích đất đang tranh chấp. Trường hợp Tòa án giao cho ông B1 quản lý sử dụng diện tích đất tranh chấp thì ông B1 phải hoàn trả giá trị bằng tiền theo định giá cho ông M.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông B1 không đồng ý tách thửa cho ông M và có yêu cầu ông M trả lại phần đất đang tranh chấp cho ông quản lý sử dụng. Ông B1 xác định ông B chuyển nhượng trọn thửa đất 428 cho ông và không biết ông B chuyển nhượng một phần thửa đất 428 cho ông M. Hiện nay ông B1 đang thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất 428 cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – Chi nhánh huyện C.
Bản án sơ thẩm tuyên xử:
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc buộc ông B tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với một phần thửa đất số 428,... Tuyên vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (Tờ mua bán đất) lập ngày 7/11/1993 giữa ông B và ông M, … đối với phần đất có diện tích 363.05m2 thuộc một phần thửa 428, …)
- Không chấp nhận yêu cầu cầu khởi kiên về việc tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 02/6/2014 giữa ông B, bà Nguyễn Thị X (bà X) và ông B1 đối với thửa đất số 428, ...
- Không chấp nhận yêu cầu cầu khởi kiện về việc tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất …, thửa đất số 428, do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 17/6/2014 cho ông B1.
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông M về việc yêu cầu ông B1 hoàn trả giá trị bằng tiền đối với phần đất tranh chấp có diện tích 457m2 thuộc một phần thửa đất số 428…. Buộc ông B1 hoàn trả cho ông M số tiền 309.523.000 đồng.
- Chấp nhận yêu cầu của ông B1 buộc ông M phải giao trả diện tích đất 457m2, thuộc một phần thửa 428,…
Bản án phúc thẩm tuyên hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại.
Phân tích điểm vi phạm dẫn đến hủy án:
Căn cứ "Tờ mua bán đất" lập ngày 7/11/1993 được UBND xã LHĐ chứng thực ngày 10/11/1993 và sự thừa nhận của bị đơn ông B thể hiện ông B cùng con gái tên Mai Thị C có chuyển nhượng cho ông M phần đất có diện tích 363.05m2, diện tích do thực tế 457m2 thuộc một phần thửa 428, ông B đã nhận tiền và giao đất cho ông M sử dụng cho đến nay. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa cấp sơ thẩm chưa làm việc với bà Mai Thị C, cũng như không đưa bà C vào tham gia tố tụng là thiếu sót.
Căn cứ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 02/6/2014 được chứng thực tại Văn phòng công chứng C thì ông B và vợ là bà X đã chuyển nhượng cho ông B1 thửa đất số 428, diện tích 3.985m2, loại đất lúa. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm không đưa bà X vào tham gia tố tụng, đến năm 2021 thì bà X chết, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm cũng không đưa những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bà X tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 68, Điều 74 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 là thiếu sót.
Ông M yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông B1 tại thửa đất số 428 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Ủy ban nhân dân huyện C tham gia tố tụng. Ngoài ra, theo công văn ngày 08/11/2022 của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện C và biên bản ghi lời khai ngày 28/10/2022 của Tòa án nhân dân huyện C thể hiện toàn bộ quyền sử dụng thửa đất số 428, diện tích 3.895m2 đã được ông B1 thế chấp cho ngân hàng theo Hợp đồng thế chấp ngày 15/7/2022 được ký kết giữa Ngân hàng với vợ chồng ông B1. Hiện nay, việc thế chấp này vẫn chưa được giải chấp do khoản nợ vay của ông B1 chưa đến hạn thanh toán. Quá trình giải quyết vụ án, Ngân hàng có văn bản xác định không khởi kiện trong vụ án này (không thể hiện ý kiến về việc tham gia tố tụng). Trong trường hợp này, để giải quyết toàn diện nội dung vụ án có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của Ngân hàng, Tòa cấp sơ thẩm không đưa Ngân hàng tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Ngân hàng.
Tại biên bản hòa giải ngày 11/4/2019 của UBND xã LHĐ, ông B1 trình bày có biết việc ông M nhận chuyển nhượng một phần thửa đất 428 của ông B, sau đó ông M tiếp tục chuyển nhượng lại cho cháu tên Nguyễn Phị T (bà T), việc mua bán có lập "Giấy thỏa thuận mua đất" ngày 05/3/2012. Tuy nhiên, suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án sơ thẩm chưa tiến hành thu thập bản chính của "Giấy thỏa thuận mua đất" ngày 05/3/2012 và chưa làm rõ có việc ông M chuyển nhượng quyền sử dụng đất đang tranh chấp cho bà T hay không?, cũng như chưa đưa bà T vào tham gia tố tụng trong vụ án là ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của bà T.
Ngoài ra, suốt quá trình giải quyết vụ án, ông M, ông B1 không có đơn khởi kiện và Tòa án cũng không có thụ lý yêu cầu khởi kiện của ông M đối với ông B1 và yêu cầu của ông B1 đối với ông M nhưng bản án sơ thẩm tuyên "Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông M về việc yêu cầu ông B1 hoàn trả giá trị bằng tiền đối với phần đất tranh chấp có diện tích 457m2 thuộc một phần thửa đất số 428…. Buộc ông B1 hoàn trả cho ông M số tiền 309.523.000 đồng"; "Chấp nhận yêu cầu của ông B1 buộc ông M phải giao trả diện tích đất 457m2, thuộc một phần thửa 428,… " là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, vi phạm quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự.
Trên đây là những vi phạm về thủ tục tố tụng của Tòa án cấp sơ thẩm dẫn đến bị cấp phúc thẩm hủy án, Phòng 9 xin nêu lên để các bạn đọc cùng tham khảo và rút kinh nghiệm khi kiểm sát giải quyết vụ án dân sự tương tự./.
Nguyễn Thị Tho