image banner
Bản án sơ thẩm bị hủy do Tòa án xác định hàng thừa kế chưa chính xác

Ngày 17 tháng 02 năm 2025, Tòa án nhân dân tỉnh LA xét xử phúc thẩm, vụ án dân sự về “Tranh chấp yêu cầu vô hiệu văn bản khai nhận di sản thừa kế, chia thừa kế”, giữa nguyên đơn bà Võ Thị Tr và bị đơn bà Dương Thị H, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã tuyên hủy bản án sơ thẩm giao hồ sơ vụ án về cấp sơ thẩm giải quyết lại, để đảm bảo việc giải quyết toàn diện vụ án.

1. Nội dung vụ án

Nguyên đơn bà Võ Thị Tr: cụ Bùi Thị B, chết ngày 20/3/1997; cụ Võ Hồng T, chết năm 2016. Cụ T, Cụ B có chung 05 người con gồm: Bà Võ Thị L, chết năm 1996 (không có chồng, con); ông Võ Văn X, chết ngày 13/5/2021; bà Võ Thị Th; bà Võ Thị Tr; bà Võ Thị M. Ông Võ Văn X có vợ tên Dương Thị H, con trai duy nhất tên Võ Ngọc Tú chết ngày 04/11/2017; Cụ T có quan hệ sống chung như vợ như chồng với bà Phùng Thị X từ năm 1979, có một con chung là Phùng Công H1.

 Cụ T, cụ B có tài sản chung là 12.100m2 đất thuộc thửa đất số 460 (cũ) (thửa mới 304 và thửa 1799), tờ bản đồ số 02, tại xã LT, huyện TT, tỉnh Long An. Cụ B đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đất do cụ B, cụ T trực tiếp quản lý, canh tác sản suất. Năm 1997, cụ B chết thì cụ T là người quản lý sử dụng. Ngày 17/5/1999 cụ T có họp thân tộc và các con phân chia đất cho các con: trai 3.000m2, gái 2000m2. Còn ai cúng giỗ bà L thì được hưởng 3.000m2. Các con đã nhận đất và trực tiếp canh tác sản xuất. Ngày 07/9/2019, ông X tự đi đăng ký kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, kê khai là người quản lý sử dụng diện tích 6.034,7m2 thuộc thửa đất số 1799 là không đúng, không phù hợp, là trái với quy định của pháp luật. Năm 2021, ông X chết. Bà H đi khai nhận di sản của ông X cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không đúng. Bà Tr yêu cầu vô hiệu nội dung văn bản khai nhận di sản thừa kế ngày 18/4/2022 do Văn phòng Công chứng TT công chứng. Yêu cầu xác định diện tích 6.034,7m2 thuộc thửa đất số 1799 là di sản thừa kế của cụ B và cụ T, yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật.

Bị đơn Dương Thị H: Bà thống nhất trình bày của bà Tr về con chung của cụ B và cụ T. Về việc cụ T có sống chung với bà X thì bà không thừa nhận ông H1 là con riêng của cụ T do không có tài liệu nào chứng minh. Bà thống nhất gia đình phân chia con gái là 2.000m2, con trai là 3.000m2. Bà Tr, bà M, bà Th đã nhận mỗi người 2.000m2 vào năm 1999. Do bà cúng giỗ chị L nên bà với ông X được hưởng 6.034,7m2, trong đó có 3.000m2 là của chị L. Ông X tự đi đang ký kê khai được Ủy ban nhân dân huyện TT cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ngày 27/11/2019. Ông X chết, bà là người thừa kế duy nhất của ông X nên bà được đi khai nhận di sản và bà được hưởng toàn bộ diện tích đất 6.034,7m2. Bà xác định đây là tài sản của bà nên không đồng ý theo yêu cầu của bà Tr, bà Th, bà M.

Bà Võ Thị M, bà Võ Thị Th: yêu cầu chia thừa kế theo quy định của pháp luật với diện tích 6.034,7m2 thuộc thửa đất số 1799, tờ bản đồ số 08, tại xã LT, huyện TT, tỉnh Long An mà bà H đang đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản của cụ T, cụ B cho 05 đồng thừa kế gồm bà Th, bà M, bà Tr, ông H1 và bà H.

Bà Phùng Thị X từ chối nhận phần di sản thừa kế của cụ T.

Ông Phùng Công H1: là con trai ruột của bà X với ông Võ Hồng T nên yêu cầu chia thừa kế di sản của cha Võ Hồng T để lại theo quy định của pháp luật.

Sau đó, bà Tr, bà M, bà Th, ông H1 rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với diện tích 3.034,7m2 và để cho bà H được hưởng. Bà Tr, bà M, bà Th, ông H1 yêu cầu được chia diện tích đất 3.000m2 thuộc khu A có diện tích 1.505,2m2, khu B diện tích 1.494,8m2 theo Mảnh trích đo địa chính số 125-2020 do Công ty TNHH Đo đạc Nhà đất Trung Nghĩa đo vẽ ngày 04/8/2020 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện TT ký duyệt ngày 05/8/2020.

2. Quá trình giải quyết vụ án

Bản án dân sự sơ thẩm số 96/2024/DS-ST ngày 05/9/2024 của Toà án nhân dân huyện TT, quyết định: Vô hiệu một phần nội dung Văn bản khai nhận di sản thừa kế của bà H đối với thửa đất số 1799. Xác định hàng thừa kế thứ nhất của cụ T, cụ B gồm có: bà Tr, bà M, bà Th. Hàng thừa kế của cụ T gồm có: cụ X, ông H1. Di sản thừa kế của cụ T, cụ B là diện tích 3.000m2 thuộc khu A có diện tích 1505,2m2, khu B diện tích 1494,8m2 thuộc một phần thửa đất số 1799. Bà Tr, bà  Th, bà M, ông H1 được chia khu A, khu B. .Buộc bà H phải giao cho bà M, bà Th, bà Tr, ông H1 khu A, khu B. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Tr, bà M, bà Th, ông H1. Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

-  Bản án dân sự phúc thẩm số 127/2025/DS-PT ngày 17/02/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh LA, tuyên xử: Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 96/2024/DS-ST ngày 05 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện TT, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện TT giải quyết lại vụ án.

3. Những điểm thiếu sót của cấp sơ thẩm dẫn đến bị hủy án

- Về xác định những người thừa kế của cụ B và cụ T:

Các đương sự thống nhất, cụ B chết vào ngày 20/3/1997, các thừa kế của cụ B gồm chồng và các con của cụ B là cụ T, ông X, bà Th, bà Tr và bà M. Đối với cụ T, cụ T chết vào năm 2016, các thừa kế của cụ T là các con của cụ T gồm ông X, bà Th, bà Tr và bà M theo Điều 651 Bộ luật Dân sự. Khi các đương sự tranh chấp về di sản thừa kế thì ông X đã chết, người thừa kế của ông X là bà H, vì vậy bà H là thừa kế chuyển tiếp của cụ B và của cụ T. Tòa án cấp sơ thẩm không xác định bà H là thừa kế chuyển tiếp của cụ B và cụ T là có thiếu sót.

Đối với bà X1: cụ T chung sống như vợ chồng với bà X1 vào năm 1979 khi đang tồn tại hôn nhân với cụ B vào thời điểm Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 có hiệu lực pháp luật, việc sống chung giữa cụ T và bà X1 không được xem là hôn nhân hợp pháp theo Điều 1 Luật Hôn nhân và Gia đình 1959, vì vậy bà X1 không phải là thừa kế của T, nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà X1 là thừa kế của cụ T là không đúng Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Đối với ông H1: ông H1, bà X1, bà Tr, bà Th và bà M trình bày cho rằng, ông H1 là con ruột của cụ T và bà X1, tuy nhiên giữa bà X1 và cụ T không có quan hệ hôn nhân, hiện bà H là một trong các thừa kế chuyển tiếp của cụ T, cụ B không thừa nhận ông H1 là thừa kế của cụ T, ông H cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh ông H là con ruột của cụ T. Các bên có tranh chấp về người thừa kế, chưa được Tòa án giải quyết xác định cha cho con nên việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định ông H1là thừa kế đương nhiên của cụ T là chưa đủ cơ sở.

- Về xác định di sản thừa kế của cụ B, cụ T:

Các đương sự đều trình bày thống nhất, cụ T và cụ B có tất cả là 12.100m² đất do Ủy ban nhân dân huyện TT cấp cho cụ B, trong đó 6.000m² đất phía bà T, bà Th, bà M đang sử dụng nhưng chưa lập thủ tục thừa kế, tuy nhiên các bên không có tranh chấp phần diện tích đất này nên Tòa án cấp sơ thẩm chưa giải quyết là có căn cứ. Đối với ½ diện tích đất còn lại của cụ T và cụ B thì ông X kê khai đăng ký và được Ủy ban nhân dân huyện TT cấp quyền sử dụng đất với diện tích 6.034m² thuộc thửa 1799 vào ngày 27/11/2019. Phía bị đơn trình bày, xuất phát từ giấy thỏa thuận phân chia đất ngày 17/5/1999, các anh chị em nhận đất và ông X đi kê khai, trong đó ông X nhận 3.000m² đất cùng với 3.000m² đất được chia cho bà L, do bà L chết, ông X cúng giỗ bà L nên nhận luôn 3.000m² đất. Như vậy cần phải đánh giá hiệu lực của giấy thỏa thuận ngày 17/5/1999 mới xác định được di sản còn lại của cụ B và cụ T. Tòa án cấp sơ thẩm chưa đánh giá hiệu lực của việc phân chia di sản ngày 17/5/1999, chỉ xác định 3.000m² đất là di sản của cụ B, cụ T chia cho bà Tr, bà Th, bà M, ông H1 là chưa xem xét toàn diện vụ án. Trong phần nhận định của bản án sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm có nhận định phía đại diện của bà Tr, bà Th và bà M đồng ý để 3.000m² đất cho bà H sử dụng, rút lại yêu cầu chia 3.000m² đất, nên đã đình chỉ giải quyết đối với 3.000m² đất nhưng lại chia toàn bộ 3.000m² đất cho những người yêu cầu là bỏ sót người thừa kế. Mặt khác khi Toà án cấp sơ thẩm đình chỉ đối với yêu cầu chia thừa kế 3.000m² đất còn lại nhưng trong quyết định không tuyên cho phía bà H được sử dụng thì các đương sự được quyền khởi kiện tiếp tục tranh chấp phần yêu cầu Toà án đã đình chỉ theo Điều 217, 218 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Với những thiếu sót nêu trên, để đảm bảo giải quyết tòa diện vụ án nên Hội đồng xét xử phúc thẩm tuyên hủy bản án sơ thẩm giao hồ sơ vụ án về cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án./.

Đặng Thị Cẩm Chi 

Đặng Thị Cẩm Chi
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập