Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật áp dụng
Qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự, phòng nghiệp vụ Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát hiện Tòa án nhân dân huyện Đ có vi phạm trong việc xác định quyền khởi kiện đòi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Phòng đã tham mưu lãnh đạo Viện ban hành quyết định kháng nghị phúc thẩm, được Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ kháng nghị.
Nội dung vụ án cụ thể như sau:
Năm 2022 nguyên đơn bà Th, ông T có cho ông B vay số tiền 170.000.000 đồng, không thỏa thuận lãi suất, thời hạn thanh toán nợ là 01 tháng. Khi vay ông B có thế chấp 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSD đất), tại thửa số 410, … do ông S đứng tên. Quá thời hạn ông B không trả nợ, bà Th, ông T khởi kiện yêu cầu ông B thanh toán nợ gốc 170.000.000 đồng và 10.000.000 đồng tiền lãi, thời hạn trả trong vòng 03 tháng kể từ ngày 25/3/2024; khi ông B thanh toán đủ sẽ trả lại GCNQSD đất nêu trên.
Bị đơn ông B xác nhận có vay nợ của bà Th, ông T chưa trả và đưa GCNQSD đất của ông S để thế chấp bảo đảm khoản vay.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông S trình bày, ông S và ông B là anh em, trước đây ông S có đưa GCNQSD đất do ông S đứng tên cho ông B, để ông B liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh, cập nhật đường giao thông trên giấy. Ông S hoàn toàn không biết việc ông B vay tiền và dùng GCNQSD đất của ông thế chấp, ông S yêu cầu bà Th, ông T và ông B liên đới trả cho ông GCNQSD đất.
Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và bị đơn thống nhất về yêu cầu trả số tiền 180.000.000 đồng và thời hạn thanh toán. Tuy nhiên nguyên đơn bà Th và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông S không thỏa thuận được về việc giao trả GCNQSD đất cho ông S.
Bản án số 51/2024/DS-ST ngày 19/4/2024 của Toà án nhân dân huyện Đ, tuyên xử:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T, bà Th về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản đối với ông B. Buộc ông B phải thanh toán cho ông T, bà Th số nợ gốc 170.000.000 đồng, tiền lãi 10.000.000 đồng, tổng cộng là 180.000.000 đồng. Thời hạn trả trong vòng 03 tháng kể từ ngày 25/3/2024.
- Về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Trường hợp bà Th, ông T không tự nguyện trả lại bản chính GCNQSD đất, quyển số DI 950387 thì ông S được quyền liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để kiến nghị, thu hồi GCNQSD đất đã cấp, quyển số DI 950387 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp ngày 02/12/2022 liên quan đến thửa 410, … và đăng ký, kê khai cấp lại GCNQSD đất, chủ sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thửa số 410, … theo quy định pháp luật về đất đai.
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh kháng nghị đối với một phần bản án sơ thẩm nêu trên, về phần tuyên về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Bản án phúc thẩm số 334/2024/DS-ST ngày 06/8/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh; sửa bản án sơ thẩm, theo đó bản án phúc thẩm tuyên buộc bà Th, ông T và ông B liên đới trả bản chính GCNQSD đất, quyển số DI 950387 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho ông S; trường hợp bà Th, ông T và ông B không giao trả bản chính GCNQSD đất nêu trên cho ông S thì ông S có quyền liên hệ các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về quản lý đất đai để làm thủ tục cấp lại GCNQSD đất đối với thửa đất nêu trên theo quy định của pháp luật về đất đai. .
Phân tích điểm vi phạm của cấp sơ thẩm:
Khi vay tiền của bà Th, ông T, ông B đã dùng GCNQSD đất của ông S thế chấp cho vợ chồng bà Th, ông T để làm tin mà không có sự đồng ý của ông S là vi phạm quy định pháp luật về chủ thể có quyền về quyền sử dụng đất.
Tại Điều 164 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại”;
Tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật áp dụng”.
Căn cứ các quy định trên, quá trình giải quyết vụ án, nếu đương sự có yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại GCNQSD đất thì Tòa án nhân dân sẽ thụ lý giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trong vụ án này, quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, ông S có yêu cầu nguyên đơn bà Th, ông T và bị đơn ông B liên đới trả cho ông S GCNQSD đất tại thửa số 410, lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải hướng dẫn đương sự và thụ lý giải quyết yêu cầu đòi lại GCNQSD đất của ông S trong cùng vụ án. Tuy nhiên, Tòa án sơ thẩm đã nhận định cho rằng GCNQSD đất không phải là tài sản, mà chỉ là chứng thư pháp lý thể hiện quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, tài sản gắn liền với đất (quyết định hành chính) nên không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khi có tranh chấp đòi trả GCNQSD đất, từ đó không xem xét yêu cầu đòi trả GCNQSD đất của ông S là không phù hợp quy định pháp luật, làm ảnh hưởng quyền lợi hợp pháp của ông S.
Cẩm Hồng