Hủy do sự thiếu hợp tác của đương sự trong quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm
Vừa qua, Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm vụ án dân sự về “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu”, giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị T và bị đơn bà Trương Thị Thanh T1, ông Nguyễn Phương L, bà Nguyễn Ngọc L1.
Hội đồng xét xử phúc thẩm đã tuyên hủy Bản án sơ thẩm số 380/2024/DS-ST ngày 17/9/2024 của Toà án nhân dân huyện Đ và giao hồ sơ vụ án về Toà án nhân dân huyện Đ giải quyết lại án do thiếu người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo quy định tại Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Nội dung cụ thể:
Bà Nguyễn Thị T khởi kiện yêu cầu hủy văn bản thỏa thuận phân chia di sản ngày 17/9/2018 tại Văn phòng công chứng V với tổng diện tích 2.780m2, thuộc các thửa đất số 154, 186, 187, cùng tờ bản đồ số 28, đất tọa lạc tại ấp An Thủy, xã An Ninh Tây, huyện Đ, tỉnh LA được xác lập giữa bà Nguyễn Thị T, bà Trương Thị Thanh T1, ông Nguyễn Phương L và bà Nguyễn Ngọc L1. Chia thừa kế diện tích 994,2 m2 (thuộc khu A, E, C), thuộc các thửa đất số 154, 186; cho bà T nhận ½ diện tích là 497,1m2 ưu tiên lấy đất thuộc khu E (cắt dọc theo ranh giữa nhà số 1 và số 3). Phần ½ diện tích còn lại chia theo pháp luật cho bà T, bà Nguyễn Thị P, ông Nguyễn Văn N (anh), bà Nguyễn Thị Bích L, bà Nguyễn Thị T2 và hàng thừa kế của ông Nguyễn Văn N (đã chết) trường hợp không chia được bằng quyền sử dụng đất thì chia theo giá trị. Bà Trương Thị Thanh T1 không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn, nếu nguyên đơn bồi thường hỗ trợ cho bà T1 số tiền 02 tỷ đồng thì bà sẽ giao lại toàn bộ phần diện tích đất các bên tranh chấp cho bên nguyên đơn.
Bản án sơ thẩm tuyên: vô hiệu văn bản phân chia ngày 17/9/2018 và chia thừa kế cho bà Trương Thị Thanh T1, ông Nguyễn Phương L, bà Nguyễn Ngọc L1 được hưởng thừa kế (thế vị của ông N) là kỷ phần giá trị tài sản tại khu A, E, C tổng cộng số tiền là 800.000.000 đồng. Đồng thời, bà Trương Thị Thanh T1, ông Nguyễn Phương L, bà Nguyễn Ngọc L1 có trách nhiệm giao tài sản thuộc khu A, E, C cho bà Nguyễn Thị T và tài sản trên đất cho bà Nguyễn Thị T.
Không đồng ý bản án sơ thẩm, bà T1 kháng cáo và tại cấp phúc thẩm bà T1 trình bày phần đất tranh chấp mà bà T1 đứng tên quyền sử dụng đất thì bà T1 đã chuyển nhượng cho ông Phạm Công D nhưng nguyên đơn khẳng định không có việc bà T1 chuyển nhượng đất cho ai, bởi vì từ trước đến nay bà T1 không có trình bày vấn đề này.
Do lời trình bày của các bên đương sự mâu thuẫn nhau nên Tòa án cấp phúc thẩm đã ngừng phiên tòa để triệu tập ông D đến tòa làm rõ mâu thuẫn giữa các bên.
Tại phiên tòa phúc thẩm tiếp theo, ông D trình bày bà Thúy đã chuyển nhượng đất cho ông D và ông D đã được đứng tên quyền sử dụng đất. Ông D có cung cấp chứng cứ bản chính kèm theo là ngày 16/5/2022 bà Thúy lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 154 và thửa 186 cho ông Phạm Công D và ông Phạm Công D đã được cập nhật sang tên quyền sử dụng đất ngày 16/6/2022.
Bản án sơ thẩm đã sử dụng Mảnh trích đo địa chính số 172-2022 do Công ty trách nhiệm hữu hạn đo đạc nhà đất Trung Nghĩa lập ngày 20/6/2022 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ duyệt ngày ngày 28/6/2022 và Mảnh trích đo phân khu số 01-2023 và số 02-2023 ngày 21/8/2023 làm căn cứ giải quyết vụ án. Mặc dù, ông D đã được cập nhật sang tên quyền sử dụng đất ngày 16/6/2022 nhưng ngày 28/6/2022 Chi nhánh Văn phòng đất đai tại huyện Đ duyệt mảnh trích đo địa chính số 172-2022 thể hiện bà T1 đứng tên quyền sử dụng đất thửa 154 và thửa 186, không thể hiện đất đã được cập nhật sang tên cho ông D.
Đồng thời, do tại cấp phúc thẩm bà T1 mới trình bày bà đã chuyển nhượng đất cho ông D từ lâu nên làm phát sinh thêm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông D và ông D chưa được Tòa án cấp sơ thẩm đưa vào tham gia tố tụng. Ông D cho rằng việc Tòa án không đưa ông vào tham gia tố tụng đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của ông D nên Hội đồng xét xử phúc thẩm đã tuyên hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm gải quyết lại vụ án theo khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Qua giải quyết vụ án nêu trên, thấy rằng trong thời gian Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án, bà T1 chuyển nhượng đất tranh chấp cho người khác và không trình bày sự thật về việc đã chuyển quyền sử dụng đất của mình cho người khác, dẫn đến Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy án sơ thẩm./.
Đặng Thị Cẩm Chi