Công ty A và Công ty B có ký kết hợp đồng kinh doanh với nội dung công việc là A cung cấp dịch vụ gia công cho Công ty B mặt hàng xoài xát chu đã qua hệ thống xử lý hơi nhiệt (VHT) và được đóng thùng carton phù hợp với nước nhập khẩu. Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty A tiếp nhận thông tin đặt hàng từ người của Công ty B thông qua hình thức trao đổi tin nhắn trên nhóm zalo chung giữa nhân viên hai bên công ty và tiến hành công việc, sau đó người vận chuyển của Công ty B sẽ đến kho của Công ty A để nhận hàng, lúc này là hoàn thành nghĩa vụ của Công ty A. Công ty A sẽ xuất các hóa đơn giá trị gia tăng cho Công ty B sau khi hoàn tất việc giao hàng. Sau đó, Công ty B sẽ thanh toán bằng hình thức chuyển khoản vào tài khoản cho Công ty A trước khi đưa hàng khỏi nhà máy của Công ty A. Như vậy, thời điểm phát sinh nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận là tại thời điểm Công ty A xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho Công ty B. Tổng số tiền Công ty B còn nợ Công ty A theo 07 hóa đơn là 1.024.071.215 đồng. Công ty A nhiều lần liên hệ yêu cầu Công ty B thanh toán toàn bộ công nợ nhưng Công ty B liên tục tìm lý do kéo dài thời gian trả nợ. Công ty A đã gửi thư đề nghị thanh toán nợ quá hạn 02 lần để yêu cầu Công ty B phải thanh toán toàn bộ số tiền công nợ còn thiếu và lãi quá hạn trong vòng 07 ngày kể từ ngày 05/4/2024.
Tại phiên tòa, đại diện Công ty A yêu cầu buộc Công ty B có nghĩa vụ thanh toán số tiền nợ gốc là 1.024.071.215 đồng, tiền lãi chậm thanh toán với mức lãi suất 15%/năm trên từng hóa đơn chậm thanh toán tính đến ngày 18/3/2025, tổng cộng tiền lãi là 176.371.990 đồng và yêu cầu tiếp tục tính lãi cho đến khi thanh toán hết nợ. Quá trình giao nhận hàng theo 07 hóa đơn này, Công ty B có thông báo với Công ty A về việc hàng bị xử lý quá nhiệt dẫn đến hư hỏng, chậm bán ra nên không có khả năng thanh toán nợ. Công ty B thừa nhận có nợ Công ty A số tiền 1.024.071.215 đồng và đồng ý thanh toán số nợ này. Về số tiền lãi, do hai bên không có thỏa thuận về tiền lãi cũng như hiện tại điều kiện kinh tế khó khăn nên Công ty B không đồng ý trả tiền lãi theo yêu cầu của Công ty A. Về thời gian đề nghị thanh toán Công ty B xin trả dần mỗi tháng 10.000.000 đồng.
Hình ảnh mang tính chất minh họa
Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện C quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp hợp đồng kinh doanh dịch vụ gia công” giữa Công ty A và Công ty B. Buộc Công ty B phải trả cho Công ty A số tiền 1.154.311.798 đồng, trong đó: Nợ gốc là 1.024.071.215 đồng, tiền lãi chậm thanh toán tính đến ngày xét xử sơ thẩm số tiền là 130.240.583 đồng. Không chấp nhận yêu cầu của Công ty A yêu cầu Công ty B trả số tiền lãi là 46.131.407 đồng. Công ty A phải chịu 2.306.570 đồng tiền án phí đối với yêu cầu tiền lãi không được chấp nhận. Công ty B phải chịu án phí sơ thẩm số tiền là 46.629.354 đồng. Bản án đã tuyên chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp hợp đồng kinh doanh dịch vụ gia công” giữa Công ty A và Công ty B. Buộc Công ty B phải trả cho Công ty A số tiền 1.154.311.798 đồng, trong đó: Nợ gốc là 1.024.071.215 đồng, tiền lãi chậm thanh toán tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 130.240.583 đồng. Không chấp nhận yêu cầu của Công ty A yêu cầu Công ty B trả số tiền lãi là 46.131.407 đồng là có căn cứ, đúng pháp luật. Buộc Công ty A phải chịu án phí đối với yêu cầu tiền lãi không được chấp nhận là đúng theo Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Vấn đề được đặt ra là có hai quan điểm về cách tính án phí.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, phần quyết định của bản án sơ thẩm tuyên xử Công ty A phải chịu án phí đối với yêu cầu tiền lãi không được chấp nhận là 46.131.407 đồng nên phải chịu 2.306.570 đồng tiền án phí là chưa đúng. Vì, theo quy định tại điểm a tiểu mục 1.4 mục 1 của phần II Danh mục án phí, lệ phí Tòa án (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016), đối với tranh chấp về kinh doanh thương mại sơ thẩm có giá ngạch từ 60.000.000 đồng trở xuống, mức án phí là 3.000.000 đồng.
Quan điểm thứ hai cho rằng, phần quyết định của bản án sơ thẩm tuyên xử Công ty A phải chịu án phí đối với yêu cầu tiền lãi không được chấp nhận là 46.131.407 đồng nên phải chịu 2.306.570 đồng tiền án phí là đúng. Vì, trong vụ án này, phía Công ty A yêu cầu Công ty B phải trả tiền lãi với số tiền là 176.371.990 đồng, nhưng không được chấp nhận là 46.131.407 đồng. Do vậy sẽ áp dụng điểm b tiểu mục 1.4 mục 1 của phần II Danh mục án phí, lệ phí Tòa án (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016), đối với tranh chấp về kinh doanh thương mại sơ thẩm có giá ngạch từ trên 6.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng với mức thu là 5% giá trị tài sản có tranh chấp, trong vụ án này số tiền có tranh chấp là 176.371.990 đồng, trong đó không được chấp nhận là 46.131.407 đồng nên mức án phí tuyên buộc Công ty A phải chịu với số tiền 2.306.570 đồng là đúng.
Như vậy, quy định về án phí trong Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 có vai trò quan trọng, tạo thuận lợi cho Tòa án áp dụng trong quá trình giải quyết các vụ án. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng, cách tính án phí vẫn còn một số vướng mắc, cần có sự nghiên cứu để áp dụng thống nhất./.
Tống Hương