Cần xác định đúng yêu cầu khởi kiện, đối tượng tranh chấp và phạm vi giải quyết
Trong các ngày 17 và 24 tháng 4 năm 2025, Tòa án nhân dân tỉnh LA đưa ra xét xử phúc thẩm vụ án dân sự có liên quan quyền sử dụng đất, quyền thừa kế, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và giao hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án do cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tống tụng.
Nội dung vụ án: Ông Nhạo và ông Hoàng là con của cụ Tiện và cụ Nghĩ (đã chết). Ông Nhạo chết năm 2020, có vợ là bà bà Thảo và 02 người con là Ngọc Châu (con của ông Nhạo và bà Thảo) và Xuân (con của ông Nhạo và người vợ trước đã chết). Ông Hoàng (đã chết), có vợ là bà Nhiêm và các con là: Lợi, Nhung, Sơn, Tuấn, Khanh, Phượng, Cảnh, Phong.
Các nguyên đơn bà Thảo và bà Châu trình bày: cụ Tiện và cụ Nghĩ có tạo lập thửa đất số 430,…Trước khi mất, cụ Tiện và cụ Nghĩ có để lại cho ông Nhạo phần đất có chiều ngang khoảng 08 mét, chiều dài 32 mét tại một phần thửa đất số 430. Ông Nhạo quản lý, sử dụng phần đất này từ năm 1984 cho đến khi chết. Năm 2013, Ủy ban nhân dân xã ĐHT có quyết định về việc cấp nhà tình thương cho ông Nhạo, căn nhà được xây dựng vào năm 2013, có diện tích chiều ngang 04 mét, chiều dài 30 mét. Gia đình ông Nhạo cùng sống trên căn nhà này đến năm 2020 thì ông Nhạo chết. Do các con đã trưởng thành và lập gia đình ở xa nên khoảng tháng 9/2022, bà Nhiêm là vợ của ông Hoàng tự ý vào căn nhà của gia đình ông Nhạo để ở, các bà đã nhiều lần yêu cầu bà Nhiêm phải di dời đồ đạc ra khỏi nhà nhưng bà Nhiêm không đồng ý.
Tại đơn khởi kiện ngày 18/7/2022 bà Thảo và bà Châu yêu cầu Tòa án công nhận cho bà Thảo và bà Châu được đứng tên quyền sử dụng đất đối với một phần thửa 430 diện tích 248m2 ..., vì đây là di sản của ông Nhạo để lại; tuyên hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Cảnh tại một phần thửa 430.
Tại phiên tòa ngày 19/9/2024, bà Thảo và bà Châu yêu cầu công nhận hiệu lực của việc tặng cho quyền sử dụng đất ngang 8m, dài hết đất thuộc một phần thửa 430 và yêu cầu tuyên cho bà Thảo, bà Châu được chỉnh lý biến động phần đất các bà yêu cầu công nhận được đứng tên quyền sử dụng đất.
Ông Cảnh trình bày: Thửa đất số 430 có nguồn gốc từ ông bà để lại cho ông Hoàng, ông Hoàng được đứng tên quyền sử dụng đất từ năm 1997. Ông Hoàng chỉ cho ông Nhạo ở nhờ, do ông Nhạo là người khuyết tật, câm điếc, chứ không tặng cho đất. Ông Cảnh không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Bà Nhiêm cùng các con thống nhất theo lời trình bày của ông Cảnh.
Bà Xuân thống nhất với nội dung đơn khởi kiện của bà Châu và bà Thảo.
Bản án sơ thẩm tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” đối với bị đơn. Công nhận việc tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Hoàng đối với ông Nhạo, theo đó, công nhận 01 phần đất thuộc thửa đất số 430, diện tích 250,6m2, loại đất ONT, thuộc khu A, vị trí và tứ cận theo Mảnh đo địa chính số 285-2023 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà Thảo, bà Châu. Buộc ông Cảnh trả lại giấy CNQSDĐ (bản chính) đối với thửa đất số thuộc thửa đất số 430, theo giấy CNQSDĐ do Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp ngày 04/02/1998 cho ông Hoàng. Buộc bà Nhiềm di dời đồ đạc trả lại nhà và đất thuộc 01 phần đất số 430, diện tích 250,6 m2, loại đất ONT cho bà Thảo, bà Châu.
Bản án phúc thẩm tuyên hủy án sơ thẩm do Tòa án cấp sơ thẩm có những điểm thiếu sót, vi phạm mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được, cụ thể như sau:
Về việc xác định yêu cầu khởi kiện, quan hệ tranh chấp:
Tại đơn khởi kiện ngày 18/7/2022, bà Thảo, bà Châu yêu cầu Tòa án công nhận cho bà Thảo, bà Châu được đứng tên quyền sử dụng đất đối với một phần thửa 430 diện tích 248m2; tuyên hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Cảnh tại một phần thửa 430. Tòa án nhân dân huyện thụ lý vụ án ngày 17/10/2022, xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất”. Tại phiên tòa ngày 19/9/2024, bà Thảo, bà Châu yêu cầu công nhận hiệu lực của việc tặng cho quyền sử dụng đất ngang 8m, dài hết đất thuộc một phần thửa 430 và yêu cầu tuyên cho bà Thảo, bà Châu được chỉnh lý biến động phần đất các bà yêu cầu công nhận được đứng tên quyền sử dụng đất.
Bản án sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp quyền sử dụng đất”; phần Quyết định của bản án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Thảo, bà Châu về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” nhưng công nhận việc tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Hoàng đối với ông Nguyễn Văn Nhạo đối với phần đất tranh chấp.
Thấy rằng, thửa 430 do ông Hoàng đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hiện ông Hoàng đã chết thì người có quyền và nghĩa vụ thay cho ông Hoàng là hàng thừa kế của ông Hoàng gồm vợ, con ông Hoàng. Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác định rõ yêu cầu khởi kiện của đương sự, chưa yêu cầu nguyên đơn làm lại đơn khởi kiện, xác định cụ thể kiện ai và yêu cầu giải quyết vấn đề gì, để từ đó xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách tham gia tố tụng của đương sự. Tại phiên tòa sơ thẩm, bà Thảo, bà Châu yêu cầu công nhận hiệu lực của việc tặng cho quyền sử dụng đất là tặng cho giữa cha mẹ (cụ Tiện, cụ Nghĩ) cho ông Nhạo hay tặng cho giữa ông Hoàng và ông Nhạo, vấn đề này cấp sơ thẩm cũng chưa làm rõ.
Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác định được yêu cầu khởi kiện của đương sự nên có sự mâu thuẫn trong việc xác định quan hệ tranh chấp và đường lối giải quyết, cần phải làm rõ yêu cầu khởi kiện của đương sự.
Về việc tuyên trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Cảnh cho rằng ông đang giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Hoàng nhưng tại phiên tòa phúc thẩm, ông Cảnh cho rằng ông không có giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Hoàng đứng tên. Quá trình tố tụng, bà Thảo, bà Châu không có đơn khởi kiện yêu cầu ông Cảnh hoặc người thừa kế của ông Hoàng trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng bản án tuyên buộc ông Cảnh trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bản chính) đối với thửa đất số 430, tờ bản đồ số 4, diện tích 250,6m2 do Ủy ban nhân dân huyện cấp ngày 04/02/1998 cho ông Hoàng là vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự, đồng thời bản án không tuyên ông Cảnh trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ai là không đảm bảo thi hành án.
Ngoài ra, trong vụ án này, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 430 không phải là do ông Nhạo đứng tên nên việc buộc giao trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ con ông Nhạo (bà Thảo, bà Châu) là không cần thiết.
Về việc tuyên bà Nhiềm di dời đồ đạc trả lại nhà và đất:
Suốt quá trình giải quyết vụ án, bà Thảo, bà Châu không có đơn yêu cầu đối với bà Nhiềm nhưng Bản án tuyên buộc bà Nhiềm di dời đồ đạc trả lại nhà và đất thuộc 01 phần đất số 430, diện tích 250,6 m2 cho bà Thảo, bà Châu là vượt quá yêu cầu của đương sự. Ngoài ra, ông Cảnh trình bày vợ ông Hoàng là bà Nhiêm và hồ sơ thể hiện bà Nhiêm có đơn đề nghị được vắng mặt trong phiên hòa giải và các phiên xét xử của Tòa án nhưng bản án lại xác định người liên quan là bà Nguyễn Thị Nhiềm và tuyên buộc bà Nhiềm là không đúng.
Mặt khác, theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 27/12/2022 thể hiện bà Nguyễn Thị Nết đang quản lý, sử dụng nhà đất; tại phiên tòa phúc thẩm, ông Phong trình bày ông là người quản lý nhà đất tranh chấp, nhưng bản án tuyên buộc bà Nhiềm giao trả nhà đất như vậy là có việc việc mâu thuẫn cần phải xác minh làm rõ để đảm bảo thi hành án:
Về xác định vị trí phần đất tranh chấp:
Bản án sơ thẩm tuyên công nhận 01 phần đất thuộc thửa đất số 430, diện tích 250,6m2, loại đất ONT… thuộc khu A, vị trí và tứ cận theo Mảnh đo địa chính số 285-2023 … thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà Thảo, bà Châu.
Hồ sơ thể hiện ông Hoàng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 430 diện tích 1.754m2, ông Hoàng đã tặng cho một phần thửa 430 cho bà Lợi, bà Nhung, bà Nết, bà Sơn, ông Cảnh, bà Nhiêm nên diện tích thửa 430 còn lại là 509m2.
Theo Mảnh trích đo địa chính số 298-2018 thể hiện sau khi tách cho bà Lợi, bà Nhung, bà Nết, bà Sơn, ông Cảnh, bà Nhiêm thì diện tích còn lại của thửa 430 có diện tích 509m2, trong đó chiều ngang giáp đường trải đá xanh là 15,3m, chiều ngang phía cuối thửa đất là 16,6m. Tuy nhiên, khi đo đạc thực tế khi giải quyết tranh chấp (theo Mảnh đo địa chính số 285-2023) Tòa sơ thẩm chỉ đo phần tranh chấp với chiều ngang cuối thửa đất 13,1m (là không phù hợp với phần còn lại của thửa 430). Không đo đạc hết thửa 430 là không đảm bảo cho việc thi hành án, bởi cần xác định vị trí tranh chấp ở tại vị trí nào của thửa 430, từ đó xác định có đảm bảo việc tách thửa hay không. Do Tòa án cấp sơ thẩm có sai sót trong quá trình giải quyết án dẫn đến Tòa án cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm nên bài viết nêu lên để bạn đọc cùng tham khảo rút kinh nghiệm trong việc giải quyết vụ án dân sự./.
Đặng Thị Cẩm Chi