Một số vấn đề cần rút kinh nghiệm qua vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất bị cấp phúc thẩm tuyên hủy để giải quyết lại
Thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất" bị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy để giao hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại, Phòng 9 nhận thấy có một số vấn đề Kiểm sát viên cần trao đổi kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát trong thời gian tới. Cụ thể:
Nội dung vụ án:
Năm 1999, bà Phan Thị M (bà M) được cha ruột là ông Phan Văn H (ông H) cho diện tích đất 2.000m2 thuộc một phần thửa số 85, 95 tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại ấp 2, xã BHN để cất nhà ở. Đến ngày 06-10-2001, cha bà M mới ký tên cho bà 2.000m2 đất trong "Đơn xin xác nhận có nhà, đất". Bà M cất nhà ở trên đất từ năm 1999 đến năm 2009, bà thuộc hộ nghèo nên được Nhà nước hỗ trợ xây nhà tình thương trên đất với diện tích 36m2 (4m x 9m), ông Phan Thanh T (ông T) không có khiếu nại. Lúc bà M được cho, phần đất này chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, khi đó ông T và các anh chị em đều biết bà M được cho đất.
Đến năm 2019 Nhà nước có chủ trương làm công trình đê bao chống lũ ven sông Vàm Cỏ Đông đi ngang trước cửa nhà bà M, lấn gần hết căn nhà bà M đang ở, nên bà M xây dựng nhà mới lùi lại phía sau để ở. Lúc này, ông T đứng ra ngăn cản với lý do ông T đang đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngày 01-11-2019, Ủy ban nhân dân xã BHN đã tiến hành hòa giải tranh chấp nhưng kết quả không thành. Hiện phần đất đang tranh chấp do ông T đang đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 95, còn lại thửa 85 thì chưa có ai đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Toàn bộ phần đất đang tranh chấp đều do bà M quản lý sử dụng.
Nay bà M khởi kiện yêu cầu: Công nhận quyền sử dụng cho bà phần đất tổng diện tích 1.835m2 (theo thực tế) gồm: Một phần thửa số 85, tờ bản đồ số 7, diện tích 466m2; một phần thửa số 95 tờ bản đồ số 7, diện tích 1.369m2. Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BE 910861, do Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH 00890 ngày 18-11-2011 thuộc một phần thửa số 95 tờ bản đồ 07.
Ông T cho rằng nguồn gốc phần thửa đất số 95 tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại ấp 2, xã BHN ông T được cha ruột là ông H cho và ông T đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2011, ông sử dụng để nuôi cá từ đó cho đến năm 2019 thì xảy ra tranh chấp với bà M. Hiện tại phần đất trên do ông đang quản lý sử dụng.
Việc bà M cho rằng được ông H tặng cho quyền sử dụng đất 2.000m2 tại một phần thửa 85 và 95 là không đúng.Thửa đất số 95 ông H đứng tên quyền sử dụng đất năm 2002, bà M không khiếu nại; năm 2011 ông được ông H tặng cho và ông T được đứng tên quyền sử dụng đất, bà M không khiếu nại; bà M trình bày "Đơn xin xác nhận có đất, nhà" để chứng minh bà M được cho đất nhưng mục đích đơn này để bổ túc hồ sơ cấp hộ khẩu, trong nội dung không xác định số thửa, tờ bản đồ, tứ cận, không có căn cứ chứng minh phần đất này thuộc một phần thửa số 95 ông T đang đứng tên mà bà Mén đang tranh chấp; Trước đây, bà M cất nhà trên thửa đất số 85, sau khi đê bao ven sông Vàm Cỏ Đông đi qua ngang nhà bà M nên bà M xây dựng nhà lấn sang thửa số 95 khoảng 10m2 thì xảy ra tranh chấp.
Nay ông T không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của M. Ông T cho rằng bà M biết việc ông T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là ngày 17-5-2019 (tại Biên bản hòa giải tranh chấp ở xã BHN), bà M không khiếu nại, không khởi kiện, cho đến nay bà M khởi kiện yêu cầu hủy giấy đã hết thời hiệu khởi kiện. Ông T có đơn phản tố yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà M tháo dỡ phần nhà khoảng 10m2 đã xây dựng trên thửa đất số 95, tờ bản đồ 7 xã BHN, đất do ông T đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông T không có yêu cầu gì đối với thửa đất số 85 tờ bản đồ 07.
- Bản án sơ thẩm số 15/2022/DS-ST ngày 29/8/2022 của TAND huyện Đ đã quyết định:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà M về việc yêu cầu công nhận quyền sử dụng cho bà M phần đất diện tích 1.369m2 (theo thực tế) tại một phần thửa số 95 tờ bản đồ số 7 xã BHN có tứ cận: …
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà M về yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BE 910861, do Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp cho ông T, …
3. Đình chỉ, trả đơn khởi kiện cho bà Phan Thị M về yêu cầu công nhận quyền sử dụng cho bà Mén diện tích đất 466m2 thuộc một phần thửa số 85, …; Bà Mén có quyền khởi kiện lại đối với nội dung này khi có đầy đủ điều kiện khởi kiện.
4. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T: Buộc bà M tháo dỡ toàn bộ phần nhà ở, công trình phụ đã xây dựng lấn chiếm 8,3m2 trên một phần thửa đất số 95, tờ bản đồ 7 xã BHN, trả lại hiện trạng ban đầu của thửa đất số 95 cho ông T, ….
- Bản án phúc thẩm số 22/2023/DS-PT ngày 16/01/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh quyết định:
Huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 15/2022/DS-ST ngày 29 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đ giao hồ sơ vụ án về cho Toà án nhân dân huyện Đ xét xử lại.
* Những vấn đề cần trao đổi rút kinh nghiệm:
Quá trình giải quyết vụ án, bà M và ông T trình bày thống nhất, nguồn gốc các thửa đất số 85 và 95 cùng tờ bản đồ số 7 là của ông H là cha ruột của bà M và ông T.
Bà M cho rằng bà M được cha cho 2000m2 đất, trong đó có một phần thửa 85 và một phần thửa 95, trong khi đó ông T cho rằng thửa dất số 95 ông T đã được cha tặng cho bằng Hợp đồng tặng cho và ông T đã được công nhận quyền sử dụng đất.
Bà M khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng 1.835m2 đất cho bà M, trong đó gồm 466m2 đất thuộc một phần thửa 85 tờ bản đồ số 7 hiện bà M đang sử dụng chưa được cấp quyền sử dụng đất và 1.369m2 đất thuộc một phần thửa 95 tờ bản đồ số 7 trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BE 910861 do Uỷ ban nhân dân huyện Đ cấp cho ông T vào ngày 18/11/2011, bà M đồng thời yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T đối với phần diện tích đất tranh chấp. Bị đơn ông T không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà M đối với thửa đất số 95 tờ bản đồ sổ 7, riêng thửa đất số 85 thì ông T không có tranh chấp. Ông T có yêu cầu phản tố yêu cầu bà M tháo dỡ phần nhà khoảng 10m2 xây dựng trên thửa đất số 95 của ông T để trả đất cho ông T.
Đối với thửa đất số 85 tờ bản đồ số 7: Theo xác nhận của Ủy ban nhân dân huyện Đ thì thửa đất số 85 tờ bản đồ số 7 chưa ai được cấp quyền sử dụng đất, có một phần diện tích đất được thi công công trình đê bao sông Vàm Cỏ Đông, chưa xác định diện tích, cần tiến hành đo đạc thực tế để xác định diện tích đất thu hồi và diện tích của thửa đất, không thể hiện qua trích lục bản đồ địa chính. Trong suốt quá trình tố tụng, ông T trình bày không có ý kiến gì đối với việc tranh chấp thửa đất số 85 của bà M. Trong hai văn bản ngày 25/4/2022, ông Phan Văn T, bà Phan Thị Thu V là anh chị em ruột của bà M, ông T có ý kiến không có tranh chấp đối với thửa đất số 85, còn những người còn lại gồm Phan Văn M, Phan Thị V, Phan Thị Th, Phan Thị Th2 và Phan Thị Th3 thì chưa thể hiện ý kiến trong hồ sơ vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định cho rằng, bà M không đủ điều kiện khởi kiện là chưa đúng quy định tại Điều 4 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 2 và Điều 3 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự. Trường hợp này cần xác định rằng, các đồng thừa kế của ông H có tranh chấp với bà M thửa đất số 85 hay không, trường hợp không có tranh chấp thì bà M được liên hệ với cơ quan quản lý nhà nước về đất đai tại địa phương để đăng ký quyền sử dụng đất, trường hợp có tranh chấp thì Toà án thụ lý giải quyết theo quy định tại Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Đối với thửa đất số 95 tờ bản đồ số 7: Trong "Đơn xin xác nhận có nhà, đất" ngày 06/10/2001, thì ông H xác nhận "Đồng ý cho con tôi với số đất là 0,20ha" tuy nhiên việc ông H cho đất ở vị trí nào thì trong giấy tay không thể hiện. Ngày 20/10/2011 ông H lại lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho ông T trong đó có thửa đất số 95, như vậy quyền sử dụng đất của ông T được xác lập thông qua giao dịch Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, việc xem xét giá trị pháp lý của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T cũng cần phải xem xét hiệu lực của Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Theo quy định tại khoản 1 Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết mà không cần có yêu cầu của đương sự, việc xem xét hủy quyết định cá biệt trong dân sự không cần xem xét về thời hiệu. Chính vì vậy Tòa án cấp sơ thẩm nhận định cho rằng, việc bà M yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng của ông T được cấp đối với thửa đất số 95 đã hết thời hiệu khởi kiện, từ đó đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của bà M là không đúng quy định tại Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự.
Như vậy Tòa án cấp sơ thẩm đã chưa xem xét về nội dung tranh chấp, về quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, về yêu cầu khởi kiện của bà M nên Tòa án cấp phúc thẩm không thể xem xét được, cần thiết phải hủy toàn bộ bản án, giao hồ sơ vụ án về Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
Lê Ngọc Hiền- Phòng 9