Xác định không đầy đủ người tham gia tố tụng, không giải quyết hậu quả hợp đồng dân sự vô hiệu
Việc đưa đầy đủ người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết đúng vụ án dân sự. Việc đưa thiếu người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng, là một trong những lỗi Tòa án cấp sơ thẩm thường mắc phải khi giải quyết các vụ án dân sự. Dẫn đến việc Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
Cụ thể như vụ án sau:
Vào năm 2018 ông Hồ Thanh D, bà Hồ Thị Tuyết M có vay của ông Nguyễn Hoàng Kh số tiền 520.000.000 đồng lãi suất thoả thuận 4%/tháng. Để đảm bảo khoản vay, ông D đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Kh 04 thửa đất gồm: thửa 483 diện tích 300m2 loại đất ở nông thôn, thửa 484 diện tích 776m2 loại đất trồng cây hằng năm khác, thửa 457 diện tích 376m2 loại đất trồng cây hàng năm khác, thửa 537 diện tích 689m2 loại đất trồng cây hàng năm, tờ bản đồ số 3 và 8 tại xã Lộc Giang, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Hợp đồng được Văn phòng công chứng Lê Ngọc M chứng thực, hợp đồng này mục đích chỉ để đảm bảo khoản tiền vay nên gia đình ông D không có giao đất cho ông Kh quản lý. Năm 2019, ông D liên hệ với ông Kh để chuộc lại đất thì mới biết ông Kh đã chuyển nhượng cho bà Hồ Thị Tr (cô ruột của ông D), do bà Tr chuộc đất của ông Kh với số tiền là 860.000.000 đồng, ông D, bà M không giao nhà, đất cho bà Tr. Sau đó, bà Tr tiếp tục chuyển nhượng cho bà Lâm Thị Thúy A. Việc bà Tr chuyển nhượng cho bà A là giả tạo, để thể hiện ngay tình, bởi vì gia đình ông D không đồng ý giao nhà và đất cho bà Tr thì có khiếu nại đến UBND xã Lộc Giang.
Bà M và ông D đề nghị Tòa án giải quyết:
- Vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Hồ Thanh D và bà Hà Thị Tuyết M với ông Nguyễn Hoàng Kh tại thửa đất 483 (thửa mới là 631) diện tích 300m2 loại đất ở nông thôn; Thửa 484 (thửa mới là 632) diện tích 776m2 loại đất trồng cây hàng năm khác; Thửa 457 (thửa mới là 570 mpt và 415 mpt) diện tích 376m2 loại đất trồng cây hàng năm khác; Thửa 537 (thửa mới là 405 mpt và 415 mpt) diện tích 689m2 loại đất trồng cây hàng năm khác, tờ bản đồ số 3, 8 tại xã Lộc Giang, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An do Văn phòng công chứng Lê Ngọc M chứng thực ngày 01/12/2018;
- Vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Hoàng Kh với ông Nguyễn Văn Đ tại 04 thửa đất nêu trên do Văn phòng công chứng Lư Thành D chứng thực ngày 18/12/2020;
- Vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Nguyễn Văn Đ và bà Hồ Thị Tr với bà Lâm Thị Thúy A cũng tại 04 thửa đất nêu trên do Văn phòng công chứng Trần Hữu Th chứng thực ngày 06/6/2022;
- Hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa 483 (thửa mới là 631) diện tích 300m2; Thửa 484 (thửa mới là 632) diện tích 776m2; Thửa 457 (thửa mới là 570 mpt và 415 mpt) diện tích 376m2; Thửa 537 (thửa mới là 405 mpt và 415 mpt) diện tích 689m2, tờ bản đồ số 3, 8 tại xã Lộc Giang, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho ông Nguyễn Hoàng Kh;
- Hủy thông tin chỉnh lý biến động trang 3 các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Nguyễn Hoàng Kh tại thửa 483 (thửa mới là 631), thửa 484 (thửa mới là 632), thửa 457 (thửa mới là 570 mpt và 415 mpt), thửa 537 (thửa mới là 405 mpt và 415 mpt), tờ bản đồ số 3, 8 tại xã Lộc Giang, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An cùng ngày cấp 28/12/2018 cho ông Nguyễn Hoàng Kh chỉnh lý sang tên Nguyễn Văn Đ vào ngày 01/02/2021;
- Hủy thông tin chỉnh lý biến động trang 3 các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Nguyễn Hoàng Kh tại thửa 483 (thửa mới là 631), thửa 484 (thửa mới là 632), thửa 457 (thửa mới là 570 mpt và 415 mpt), thửa 537 (thửa mới là 405 mpt và 415 mpt), tờ bản đồ số 3, 8 tại xã Lộc Giang, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An cùng ngày cấp 28/12/2018 đã chỉnh lý sang tên cho Nguyễn Văn Đ sang tên lại cho bà Lâm Thị Thúy A vào ngày 15/7/2022.
Bị đơn ông Nguyễn Hoàng Kh không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì ông D đã ký hợp đồng chuyển nhượng cho ông Kh, ông Kh đã chuyển nhượng cho bà Tr là hợp pháp. Ông Kh đã thực hiện xong nghĩa vụ của mình là bàn giao đất cho bà Tr và ông Đ. Nếu Tòa án có căn cứ vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Hoàng Kh với ông Hồ Thanh D và Hà Thị Tuyết M với ông Nguyễn Hoàng Kh được Văn phòng công chứng Lê Ngọc M chứng thực ngày 01/12/2018 thì ông Kh chưa có yêu cầu ông D và bà M phải bồi thường.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hồ Thị Tr và ông Nguyễn Văn Đ thống nhất trình bày: Bà Tr là cô ruột của ông D. Do bà Tr, ông Đ biết thông tin ông D đã cầm đất cho ông Kh không có khả năng chuộc lại, ông Kh có báo lại nếu gia đình không có ai có nhu cầu mua lại phần đất trên thì ông Kh sẽ bán cho người ngoài. Bởi vì trên đất có mồ mã của ông bà, ông D nhiều lần năn nỉ nên bà Tr, ông Đ đã gặp ông Kh thỏa thuận chuộc lại với giá là 860.000.000 đồng. Ông Kh chuyển nhượng toàn bộ các thửa đất trên cho ông Đ theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Văn phòng công chứng Lư Thành D chứng thực và ông Đ được Nhà nước chỉnh lý sang tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 01/02/2021. Phía ông Đ đã thanh toán tiền xong cho ông Kh. Ông Kh đã giao đất cho vợ chồng bà Tr, ông Đ quản lý, sử dụng nhưng vợ chồng bà Tr cho gia đình ông D, ông S, ông G ở lại trên đất. Sau khi mua đất ông Kh xong thì vợ chồng bà Tr có cho con là bà Nguyễn Thị Ngọc Đ xây quán bán nước, đồ ăn sáng và trông coi đất khoảng hơn 01 năm nhưng vì dịch bệnh bùng phát nên bà Đ không buôn bán nữa để quán trống. Năm 2022, bà Tr và ông Đ chuyển nhượng lại cho cháu ngoại là bà Lâm Thị Thúy A và đã nhận đủ tiền chuyển nhượng. Bà Tr và ông Đ thống nhất theo ý kiến của bà A.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lâm Thị Thúy A trình bày: Bà A là cháu ngoại của ông Đ và bà Tr. Ngày 06/6/2022, bà có ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Đ và bà Tr đối với quyền sử dụng đất tại các thửa 483, 484, 457, 537 tờ bản đồ số 3, 8 tại xã Lộc Giang, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Bà A đã thanh toán tiền xong cho ông Đ và bà Tr. Tại thời điểm mua đất, bà An có đến xem đất, trên đất là có nhà của ông D, ông S, ông G. Bà yêu cầu các gia đình ông D, ông S, ông G di dời đi nơi khác, nhưng họ không đồng ý. Bà A chỉ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chứ không có nhận mua nhà vì nhà đã xây lâu nên không còn giá trị. Bà không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bà A có yêu cầu độc lập yêu cầu những người ở trên đất gồm gia đình của ông D, ông S, ông G phải di dời trả đất lại cho bà A. Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, tuyên vô hiệu các hợp đồng chuyển nhượng thì bà yêu cầu nguyên đơn phải bồi thường cho bà giá trị đất theo giá thị trường tại thời điểm xét xử là 5.000.000.000 đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hồ Văn S và ông Hồ Văn G không đồng ý với yêu cầu độc lập của bà A.
Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Đ đã tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Hà Thị Tuyết M và ông Hồ Thanh D về việc: “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” với ông Nguyễn Hoàng Kh, Nguyễn Văn Đ và bà Lâm Thị Thúy A.
1.1. Vô hiệu một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Hồ Thanh D và bà Hà Thị Tuyết M được Văn phòng công chứng Lê Ngọc M chứng thực ngày 01/12/2018 thuộc phần thửa 415 diện tích 266.8m2 tờ bản đồ 3 xã Lộc Giang và phần thửa 631 diện tích 254,1m2 tờ bản đồ 3 xã Lộc Giang, loại đất ONT và BHK trên đất có nhà ông D và ông S.
1.2. Vô hiệu một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Hoàng Kh và ông Nguyễn Văn Đ được Văn phòng công chứng Lư Thành D chứng thực ngày 18/12/2020, thuộc phần thửa 415 diện tích 266,8m2 tờ bản đồ 3 xã Lộc Giang và phần thửa 631 diện tích 254,1m2 tờ bản đồ 3 xã Lộc Giang, loại đất ONT và BHK trên đất có nhà ông D và ông S.
1.3. Vô hiệu một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn Đ và bà Hồ Thị Tr với bà Lâm Thị Thúy A do Văn phòng công chứng Trần Hữu Th chứng thực ngày 06/6/2022, thuộc phần thửa 415 diện tích 266,8m2 tờ bản đồ 3 xã Lộc Giang và phần thửa 631 diện tích 254,1m2 tờ bản đồ 3 xã Lộc Giang, loại đất ONT và BHK trên đất có nhà ông D và ông S.
1.4. Ông D được liên hệ cơ quan có thẩm quyền kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ….
2. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của bà Lâm Thị Thúy A về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” với bà Hà Thị Tuyết M, ông Hồ Thanh D, Hồ Văn G, ...
2.1. Buộc các ông bà Hồ Văn G cùng các thành viên trong gia đình di dời chỗ ở giao lại nhà chính gắn liền với phần thửa 405...
2.2. Buộc bà Lâm Thị Thúy A phải trả cho ông Hồ Văn G 210.857.747 đồng trị giá nhà.
2.3. Cho ông Hồ Văn G cùng các thành viên gia đình được lưu cư 03 tháng ....
2.4. Buộc bà Hồ Văn S, Hà Thị Tuyết M và ông Nguyễn Hoàng Kh phải giao thửa 632 thuộc khu I; phần thửa 631; phần thửa 570; phần thửa 415. Vị trí đất theo Mảnh trích đo phân khu ...
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo và thời hạn kháng cáo, quyền về thi hành án của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Kh, bà n, ông S, ông G kháng cáo.
Bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Long An tuyên xử: Hủy bản án dân sự sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa giải quyết lại vụ án theo trình tự thủ tục sơ thẩm.
Những thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm:
* Về tố tụng
- Về quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Hồ Thanh D và bà Hà Thị Tuyết M với ông Nguyễn Hoàng Kh, vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Hoàng Kh với ông Nguyễn Văn Đ, vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Nguyễn Văn Đ và bà Hồ Thị Tr với bà Lâm Thị Thúy A; hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông Nguyễn Hoàng Kh; hủy thông tin chỉnh lý biến động trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn Đ và bà Lâm Thị Thúy A. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lâm Thị Thúy A có yêu cầu độc lập yêu cầu những người ở trên đất gồm gia đình của ông D, ông S, ông G phải di dời trả đất lại cho bà A. Trong trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, tuyên vô hiệu các hợp đồng chuyển nhượng thì bà yêu cầu nguyên đơn phải bồi thường cho bà giá trị đất theo giá thị trường tại thời điểm xét xử là 5.000.000.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” là chưa đủ, cần xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy chỉnh lý sang tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, yêu cầu tháo dỡ, di dời tài sản trên đất, đòi lại quyền sử dụng đất và giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu”.
- Về người tham gia tố tụng: Trên phần đất các bên đang tranh chấp thì bà Nguyễn Thị Th có xây dựng quán ăn có diện tích 30,7m2 và đang quản lý sử dụng phần đất tại Khu C của Mảnh trích đo địa chính để buôn bán. Trong quá trình giải quyết vụ án cấp sơ thẩm có tiến hành ghi nhận ý kiến của bà Th đối với yêu cầu khởi kiện và yêu cầu độc lập của các đương sự, trong bản án cũng có ghi nhận ý kiến của bà Nguyễn Thị Th, tuy nhiên, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, trong các thông báo của Tòa án, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và tại bản án sơ thẩm cũng không ghi tên bà Nguyễn Thị Th tham gia với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót làm ảnh hưởng đến các quyền của bà Th. Thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng quy định khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự.
* Về nội dung
Trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lâm Thị Thúy A có yêu cầu độc lập là yêu cầu những người ở trên đất gồm gia đình của ông D, ông S, ông G phải di dời trả đất lại cho bà A. Trong trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, tuyên vô hiệu các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì bà A yêu cầu nguyên đơn phải bồi thường cho bà giá trị đất theo giá thị trường tại thời điểm xét xử là 5.000.000.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn tuyên bố vô hiệu một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Hồ Thanh D và bà Hà Thị Tuyết M với ông Nguyễn Hoàng Kh, giữa ông Nguyễn Hoàng Kh với ông Nguyễn Văn Đ, giữa Nguyễn Văn Đ và bà Hồ Thị Tr với bà Lâm Thị Thúy A đối với phần đất tại khu C1, G2, G3 và H2 theo Mảnh trích đo phân khu do Công ty TNHH đo đạc nhà đất Trung Nghĩa phân khu ngày 22/9/2023. Nhận thấy, trong vụ án bà A xác định bà có yêu cầu giải quyết hậu quả trong trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, tuy nhiên, cấp sơ thẩm chỉ tuyên vô hiệu một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với phần đất như trên nhưng lại không giải quyết hậu quả đối với phần vô hiệu, không nhận định, xem xét có chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu giải quyết hậu quả vô hiệu của bà A đối với phần đất này là bỏ sót yêu cầu độc lập của đương sự. Cấp phúc thẩm không thể xem xét giải quyết đối với nội dung bản sơ thẩm chưa giải quyết, sai sót này không thể khắc phục được tại phiên tòa phúc thẩm.
- Ngoài ra, trên đất tranh chấp ngoài gia đình ông D, ông S, ông G đang sinh sống và quản lý sử dụng thì còn có bà Th là dì ruột của ông D cũng đang quản lý sử dụng phần đất tại khu C của Mảnh trích đo địa chính nhưng cấp sơ thẩm không ghi nhận và hỏi ý kiến của đương sự có tranh chấp đối với phần đất mà bà Th đang quản lý, sử dụng, có yêu cầu bà Th trả lại đất, di dời tháo dỡ tài sản của bà Th trên đất hay không, việc không giải quyết đối với phần đất này sẽ gây khó khăn cho việc thi hành án.
Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đảm bảo hai cấp xét xử, cần thiết phải huỷ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án về Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án./.
Ngọc Hân