image banner
Không xem xét, đánh giá chứng cứ một cách toàn diện, giải quyết vượt quá yêu cầu của đương sự, bản án sơ thẩm bị hủy án.

Xem xét, đánh giá chứng cứ chưa toàn diện, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, giải quyết vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự là một trong những vi phạm dẫn đến bản án sơ thẩm bị hủy án. Phòng 9 nhận thấy có một số vấn đề cần trao đổi kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát trong thời gian tới, cụ thể:

Nội dung vụ án:

Bà Lê Thị B và ông Trần Văn Th là vợ chồng. Ông Th đã mất vào tháng 05/2020, có con chung là Trần Văn Th, Trần Hữu Th. Ngày 04/06/2016, bà B có vay tiền của bà Nguyễn Thị H số tiền 20.000.000 đồng, lãi suất 10%/tháng. Khi vay tiền, vợ chồng bà B và bà Nguyễn Thị H đã ký hợp đồng ủy quyền ngày 11/08/2016 tại Phòng công chứng số 04 tỉnh Long An đối với thửa đất số 305, tờ bản đồ số 18, diện tích 326m2, đất tọa lạc tại ấp Chánh, xã Tân Phú, huyện Đ, tỉnh Long An để làm tin. Vợ chồng bà B đã trả tiền lãi cho bà H được 06 tháng thì không trả lãi nữa do không liên lạc được với bà H, do bà H đã đi nơi khác sinh sống. Đến tháng 09/2019, bà B tìm được địa chỉ mới của bà H để xin chuộc lại giấy tờ đất nhưng bà H trả lời là đất đã bán cho người khác. Vì vậy, bà Lê Thị B, ông Trần Văn Th, ông Trần Hữu Th khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: 

- Hủy hợp đồng ủy quyền giữa bà Lê Thị B và ông Trần Văn Th với bà Nguyễn Thị H ngày 11/08/2016 tại Phòng Công chứng số 04 tỉnh Long An. 

- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Lê Thị B và ông Trần Văn Th do bà Nguyễn Thị H làm người đại diện ký với ông Nguyễn Văn V ngày 16/06/2017 tại Phòng Công chứng số 04 tỉnh Long An. 

- Hủy hợp đồng ủy quyền giữa vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Trương Thị A với ông Trần Thanh T ký ngày 12/05/2018 tại Văn phòng Công chứng Võ Văn Ninh. 

- Hủy hợp đồng ủy quyền giữa vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Trương Thị A (do ông Trần Thanh T làm người đại diện) với bà Bùi Thị Th ngày 07/11/2018 tại Văn phòng Công chứng Võ Văn Ninh. 

- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Trương Thị A (do ông Trần Thanh T làm người đại diện, bà Bùi Thị Th là người đại diện của ông T) với ông Phạm Ngọc  ngày 10/12/2018 tại Văn phòng Công chứng Võ Văn Ninh. 

- Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Nguyễn Văn V; hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Phạm Ngọc  đối với thửa đất số 305, tờ bản đồ số 18, diện tích 326m2, đất tọa lạc tại ấp Chánh, xã Tân Phú, huyện Đ, tỉnh Long An. 

Bị đơn bà Nguyễn Thị H thừa nhận có nhận chuyển nhượng của vợ chồng bà Lê Thị B, ông Trần Văn Th thửa đất số 305; TBĐ số 18; tổng diện tích: 326m2, đất tọa lạc tại xã Tân Phú, huyện Đ, tỉnh Long An. Do phần đất trên không có đường đi nên vợ chồng ông Trần Văn Th và bà Lê Thị B có làm giấy thỏa thuận ngày cùng 11/8/2016 để mua chiều ngang 4m, chiều dài 30m vô thẳng miếng đất lúa tại thửa 305, với tổng giá trị 80.000.000 đồng. Cùng ngày, ông Th với bà B có lập Hợp đồng ủy quyền ngày 11/8/2016 tại Phòng Công chứng số 04 tỉnh Long An để chuyển nhượng cho bà H theo Hợp đồng ủy quyền này. Đến ngày 16/6/2017, bà H có lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Nguyễn Văn V tại Phòng Công chứng số 4, tỉnh Long An,  sau đó ông Nguyễn Văn V chuyển nhượng cho nhiều người khác. Nay, trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì bà H không đồng ý.

Ông Trần Thanh T xác định vào ngày 12/5/2018, ông có nhận chuyển nhượng đất dưới hình thức hợp đồng ủy quyền sử dụng đất từ ông Nguyễn Văn V tại thửa đất số 305 với số tiền chuyển nhượng là 60.000.000 đồng. Đến ngày 10/12/2018, ông chuyển nhượng lại cho bà Bùi Thị Th dưới hình thức cũng là hợp đồng ủy quyền, giá chuyển nhượng là 80.000.000 đồng. Còn việc bà B với bà H trước đây ký kết hợp đồng như thế nào thì ông không rõ. Vì vậy, ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. 

Ông Phạm Ngọc  và bà Bùi Thị Th không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. 

Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Đ, đã quyết định:

Bác yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn về việc tranh chấp yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với bà Nguyễn Thị H, liên quan đến thửa 305... 

Tuyên, các văn bản công chứng sau đây có hiệu lực: 

+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng bà Lê Thị B và ông Trần Văn Th do bà Nguyễn Thị H làm người đại diện với ông Nguyễn Văn V ... 

+ Hợp đồng ủy quyền giữa vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Trương Thị A với ông Trần Thanh T ... 

+ Hợp đồng ủy quyền giữa vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Trương Thị A (do ông Trần Thanh T làm người đại diện) với bà Bùi Thị Th …. 

+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Nguyễn Văn V, bà Trương Thị A (do ông Trần Thanh T làm người đại diện, bà Bùi Thị Th là người đại diện của ông T) với ông Phạm Ngọc  ... 

Ông Phạm Ngọc  và bà Nguyễn Thị Th được quyền tiếp tục quản lý, sử dụng phần diện tích đất 326m2 thuộc thửa số 305... 

...

Bản án dân sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Long An tuyên: Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Đ giải quyết lại theo trình tự thủ tục sơ thẩm.

Những vi phạm, thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm:

- Về việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp:

Nguyên đơn khởi kiện bị đơn yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất liên quan đến thửa đất số 305. Các nguyên đơn hoàn toàn không có khởi kiện đối với Văn phòng công chứng Võ Văn Ninh (kế thừa quyền, nghĩa vụ của Phòng công chứng số 4) để yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng hợp đồng là vô hiệu; cũng không có yêu cầu hủy quyết định cấp giấy chứng chứng nhận (quyết định cá biệt) nên việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là " Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, hủy quyết định cá biệt" là chưa phù hợp.

Trong vụ án này, nguyên đơn không cho rằng việc công chứng có vi phạm pháp luật, mà trình bày căn cứ để nguyên đơn khởi kiện là do việc ủy quyền ngày 11/8/2016 từ bà B, ông Th cho bà H thực chất để đảm bảo cho việc vay nợ. Như vậy, bản chất tranh chấp của bà B là tranh chấp yêu cầu tuyên b giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo. Đồng thời, nguyên đơn không phải là một bên trong các giao dịch liên quan đến thửa 305 phát sinh sau đó giữa ông V và ông T; ông T và bà Th; ông T và ông A nên không có quyền khởi kiện để yêu cầu hủy các giao dịch này.

 Do đó, quan hệ pháp luật tranh chấp cần được giải quyết trong vụ án này phải là: “'Tranh chấp yêu cầu vô hiệu hp đồng ủy quyn, hợp đng chuyển nhượng quyn sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyển sử dụng đt ”.

- Về việc xem xét, đánh giá chứng cứ:

Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, các nguyên đơn cho rằng hợp đồng ủy quyền ngày 11/8/2016 giữa bà B, ông Th với bà H đối với thửa 305 là giả tạo, nhằm che giấu hợp đồng vay tiền và có cung cấp cho Tòa án chứng cứ là Giấy mượn tiền (viết tay) ngày 04/6/2016. Đại diện của bà H cho rằng có ký hợp đồng vay rồi chuyển qua chuyển nhượng bằng hình thức hợp đồng ủy quyền, giá chuyển nhượng là 80.000.000 đồng; bà B còn ký tên “bán” cho bà H lối đi vào thửa 305 có diện tích 120m2 với chiều ngang 4m x chiều dài 30m, theo “Đơn thỏa thuận” ghi cùng ngày 11/8/2016. Trong khi đó, bà B khẳng định không biết gì về nội dung này và xác định trên thực tế bà cũng không còn phần đất nào trống có chiều ngang 4m để làm lối đi vào thửa 305. Từ trình bày của các đương sự cho thấy đã có sự tranh chấp về việc có hay không giao dịch chuyển nhượng lối đi theo “Đơn thỏa thuận”. Tòa án cấp sơ thẩm không làm rõ có hay không tồn tại lối đi có chiều ngang 4m x chiều dài 30m dẫn vào thửa 305 và phần lối đi có diện tích 120m2 này có giá trị là bao nhiêu, vì nội dung nêu trong “Đơn thỏa thuận” hoàn toàn không thể hiện giá trị cũng như vị trí tứ cận phần lối đi này thuộc thửa đất nào, nhưng mặc nhiên sử dụng tình tiết này để nhận định việc chuyển nhượng thửa 305 là có thật. Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận trình bày củạ bị đơn, bác toàn bộ các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa đủ căn cứ vững chắc, chưa đánh giá toàn diện, đầy đủ các tình tiết còn lại của vụ án.

-         Về việc đối chất và thu thập thêm chứng cứ:

Qua xem xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 16/06/2017 giữa bà B, ông Th (do bà Nguyễn Thị H làm người đại diện) với ông Nguyễn Văn V, thể hiện giá chuyển nhượng ghi trên hợp đồng được công chứng là 20.000.000 đồng. Nhưng đại diện bị đơn bà H xác nhận lại giá chuyển nhượng thực tế cho ông V là 80.000.000 đồng, nghĩa là bằng với số tiền 80.000.000 đồng mà bà H cho rằng đã nhận chuyển nhượng thửa 305 từ bà B vào ngày 11/8/2016. Hồ sơ vụ án thể hiện, khi ông V tiếp tục chuyển nhượng thửa 305 cho ông Trần Thanh T theo hợp đồng ủy quyền ngày 12/05/2018 giữa ông Nguyễn Vãn V, bà Trương Thị A với ông Trần Thanh T, thì ông T trình bày nhận chuyển nhượng với số tiền 60.000.000 đồng và tiếp đó chuyển nhượng lại cho bà Bùi Thị Th với số tiền 80.000.000 đồng, theo hp đồng ủy quyền ngày 07/11/2018 giữa ông Nguyễn Vãn V, bà Trương Thị A (do ông Trần Thanh T làm người đại diện) với bà Bùi Thị Th. Sau đó, ông T tiếp tục làm thủ tục chuyển nhượng cho ông Phạm Ngọc Â, theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/12/2018 giữa ông Nguyễn Văn V, bà Trương Thị A (do ông Trần Thanh T làm người đại diện, bà Bùi Thị Th là người đại diện của ông T) với ông Phạm Ngọc Â, giá chuyển nhượng ghi trên hợp đồng được công chứng là 20.000.000 đồng. Trong khi đó, bà Th, ông  trình bày đã nhận chuyển nhượng thửa 305 từ ông T với giá 240.000.000 đồng.

Như vậy, qua các giao dịch hợp đồng trên cho thấy giá trị mà các bên giao dịch trong các hợp đồng công chứng là không đúng với giá trị thực tế, nhưng trong quá trình giải quyết Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành thu thập, đối chất để làm rõ số tiền thực tế các bên đã giao nhận qua các giao dịch; cũng như làm rõ có hay không việc chuyển nhượng phần lối đi 120m2 trong từng giao dịch chuyển nhượng trên. Để có đủ cơ sở giải quyết vụ án, nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia trong các giao dịch, cũng như việc giải quyết hậu quả của hợp đồng (nếu có) trong trường hợp các hợp đồng trên bị Tòa tuyên bố vô hiệu.

- Về việc Tòa án giải quyết vượt quá yêu cầu khởi kiện, không giải thích cho đương sự biết để thực hiện quyền yêu cầu:

Bản án sơ thẩm nêu trên tuyên công nhận hiệu lực của các hợp đồng và tuyên ông Â, bà Th được quyền tiếp tục quản lý sử dụng đất phần diện tích 326m2 thuộc thửa 305 trong khi không có đương sự nào khởi kiện yêu cầu, là vượt quá phạm vi xét xử./.

Ngọc Hân

Nguyễn Thị Ngọc Hân
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập