image banner
Bất cập trong quy định về tạm ứng chi phí thẩm định, định giá tài sản

Sau khi thụ lý vụ án dân sự thuộc thẩm quyền và trong giai đoạn giải quyết vụ án, Tòa án có thể ban hành quyết định đình chỉ giải quyết nếu phát sinh các căn cứ quy định tại Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS năm 2015). Theo đó, đình chỉ do đương sự không nộp tạm ứng chi phí tố tụng là căn cứ phổ biến và tồn tại nhiều bất cập trong thực tiễn giải quyết, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Thông qua việc phân tích các quy định pháp luật tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS năm 2015), nhận thấy còn tồn tại một số vướng mắc, bất cập, cụ thể:

Quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015 nêu rõ một trong những trường hợp Tòa án phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự: “Nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.

Trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 104 BLTTDS năm 2015, khi có yêu cầu từ một bên đương sự, Tòa án sẽ ra quyết định định giá tài sản và thành lập Hội đồng định giá. Đương sự có trách nhiệm nộp tiền tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản theo quy định tại Điều 156 BLTTDS năm 2015. Cụ thể, Điều 155 BLTTDS năm 2015 ghi nhận tiền tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là số tiền mà Tòa án “tạm tính”“cần thiết và hợp lý phải chi trả cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ theo quy định của pháp luật”; song chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào hướng dẫn cụ thể về cách tính mức tạm ứng này. Từ đó dẫn đến nhiều bất cập, tồn tại trong thực tiễn giải quyết tranh chấp của Tòa án cũng như khó khăn trong hoạt kiểm sát quyết định đình chỉ của Viện kiểm sát phát sinh từ căn cứ này.

Về hệ quả pháp lý, khoản 1 Điều 218 BLTTDS năm 2015 và Tiểu mục 5 Phần IV Công văn số 02/TANDTC-PC ngày 02/8/2021 của Tòa án nhân dân tối cao về việc giải đáp một số vướng mắc trong xét xử ghi nhận: Trong trường hợp Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự vì lý do “Nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác” thì nguyên đơn không có quyền khởi kiện lại để yêu cầu Tòa giải quyết tiếp vụ án như đối với trường hợp rút đơn khởi kiện.

Tuy nhiên, việc Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành quy định mức tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản là số tiền Tòa án tạm tính để tiến hành các hoạt động tố tụng này, song không có hướng dẫn chi tiết về trình tự và thủ tục thu - chi liên quan đến chi phí trên. Do vậy việc ấn định mức tạm ứng thường theo ý chủ quan của Tòa án, mà cụ thể là Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án.

Điển hình từ thực tiễn kiểm sát quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự của TAND huyện T về “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa bà Cao Thị Thế và ông Phan Văn Ngẩu và bà Trần Thị Thảnh, Phòng 9 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An nhận thấy việc yêu cầu tạm ứng chi phí đo đạc, định giá và xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa án cấp sơ thẩm là chưa phù hợp: Thứ nhất, tồn tại bất cập về mức tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản có sự chênh lệch lớn so với mức chi phí thực tế cần thiết; không phù hợp với đối tượng tài sản tranh chấp của vụ án (Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu nộp tạm ứng 30 triệu đồng, trong khi chi phí thực tế các cơ quan hữu quan xác định chỉ vào khoảng 1.327.000 đồng); Thứ hai, Tòa án thiếu sót trong thủ tục thông báo về thời gian và mức tạm ứng chi phí tố tụng khi TAND huyện T vẫn chưa ấn định và ra thông báo cho đương sự phải đóng số tiền xem xét thẩm định tại chỗ là bao nhiêu? Thời hạn đóng tiền đến ngày nào và có đồng ý cho đương sự tự liên hệ cơ quan có thẩm quyền tiến hành đo đạc, định giá hay không? Từ vướng mắc trên, đương sự không thể theo dõi, bám sát yêu cầu nộp tiền tạm ứng chi phí tố tụng của Tòa án để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của mình, dẫn tới thiếu sự minh bạch.

Đề xuất một số lưu ý cho Kiểm sát viên khi kiểm sát các quyết định đình chỉ phát sinh từ căn cứ tại điểm đ khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

Khi kiểm sát các quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án, Kiểm sát viên cần nắm vững các quy định của BLTTDS năm 2015 về căn cứ đình chỉ tại các Điều 217, Điều 244, Điều 245; các quy định về nghiệp vụ của ngành như Điều 18 Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự (ban hành kèm theo Quyết định số 364/QĐ-VKSTC ngày 02/10/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao); Điều 5, Điều 10, Điều 11 Quyết định số 399/QĐ-VKSTC ngày 06/9/2019 ban hành quy định về quy trình, kỹ năng kiểm sát bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự của Tòa án… xem xét về thạn gửi quyết định, hình thức quyết định, thời hạn ban hành quyết định, thẩm quyền ban hành quyết định.

Đặc biệt, gắn với căn cứ đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự do đương sự không nộp tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác tại điểm đ khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015, Kiểm sát viên cần lưu ý xem xét thời hạn và mức tạm ứng chi phí tố tụng mà Tòa án ấn định cho đương sự phải nộp có phù hợp hay không. Cụ thể:

Kiểm sát viên cần xem xét nội dung Tòa án ấn định thời gian đương sự phải nộp chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác có phù hợp với Hướng dẫn sử dụng Mẫu số 04-DS về Thông báo nộp tiền tạm ứng chi phí tố tụng của Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự hay không. Tùy từng trường hợp, căn cứ quy định của pháp luật mà Tòa án ghi thời hạn đương sự phải nộp chi phí tố tụng. Đối với trường hợp mà pháp luật không quy định thì thời hạn đương sự phải nộp chi phí tố tụng là 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án, trường hợp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì thời hạn có thể kéo dài nhưng không quá 20 ngày. Trong trường hợp đương sự có yêu cầu gia hạn thời gian nộp tạm ứng án phí và được Tòa án chấp nhận thì Tòa án phải ban hành văn bản gia hạn nộp tiền chi phí tố tụng để đương sự kịp thời nắm bắt và đảm bảo thực hiện đúng thời hạn.

Hiện nay, thực tiễn xét xử cho thấy thông thường những khoản cần phải chi trong việc xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản sẽ bao gồm: (i) Chi phí đo vẽ nhà đất, được tính theo giá của cơ quan có chức năng đo vẽ nhà, đất, đây là chi phí có hợp đồng, biên lai thu tiền; (ii) Chi phí cho phương tiện đi lại, nếu địa điểm ở xa thì chi phí được tính theo giá vận chuyển, sẽ có hoá đơn, chứng từ, nếu địa điểm gần thì cán bộ Toà án và thành viên sẽ tự túc phương tiện; (iii) Chi phí cho đại diện Uỷ ban nhân dân xã, phường tham gia phối hợp cùng Toà án để tiến hành xác định vị trí đất, ranh đất; (iv) Chi phí cho Hội đồng định giá, Công ty định giá... Kiểm sát viên khi được phân công kiểm sát quyết định đình chỉ cần xem xét đánh giá mức tạm ứng chi phí tố tụng có thực sự phù hợp hay không; nhận định mức độ chênh lệch hợp lý giữa yêu cầu tạm ứng chi phí định giá tài sản, thẩm định tại chỗ mà Thẩm phán yêu cầu đương sự phải nộp với chi phí thực tế cần thiết để tiến hành các hoạt động tố tụng này. Từ đó, nhằm hạn chế tình trạng đình chỉ không phù hợp, góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng của đương sự và nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự.

Như vậy, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự do đương sự không nộp tạm ứng chi phí thẩm định, định giá tài sản là một vấn đề còn tồn tại nhiều vướng mắc trong quy định pháp luật hiện hành, tiềm ẩn nhiều khó khăn trong thực tiễn tố tụng và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự.

Nguyễn Phạm Thanh Nhàn

Nguyễn Phạm Thanh Nhàn
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập