Theo BLTTDS năm 2015 (Điều 184), khi có yêu cầu áp dụng về thời hiệu, Tòa án sẽ căn cứ vào các quy định về thời hiệu được quy định ở BLDS năm 2015 để xem xét. Theo đó thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại Điều 132 và thời hiệu khởi kiện về hợp đồng được quy định tại Điều 429 BLDS năm 2015. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật về thời hiệu, vẫn còn có vụ việc Tòa án áp dụng không đúng, làm ảnh hưởng đến quyền khởi kiện của đương sự. Tác giả xin viện dẫn thông qua vụ án sau để các bạn đọc cùng nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm:
Nội dung vụ việc như sau:
Ông H1, bà Đ có cho ông Nguyễn Thanh H2 và bà T vay số tiền 400.000.000 đồng và có đặt cọc tiền để mua 04 thửa đất, сụ thể như sau:
Ngày 01/11/2018, bà Đ và vợ chồng bà T, ông H2 làm giấy đặt cọc sang nhượng thửa đất số 648, tờ bản đồ số 16, diện tích 389m2, đất tọa lạc tại ấp B C, xã BT, huyện T, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CL650548 do bà T đứng tên. Giá chuyển nhượng là 700.000.000 đồng, bà Đ đặt cọc trước 550.000.000 đồng, số tiền còn lại 150.000.000 đồng khi 02 bên ký hợp đồng chuyển nhượng sẽ thanh toán tại văn phòng công chứng. Thời hạn ký hợp đồng chuyển nhượng trong vòng 06 tháng kể từ ngày đặt cọc. Bà T là người trực tiếp ký hợp đồng đặt cọc.
Ngày 03/11/2018, bà Đ và vợ chồng bà T, ông H2 làm giấy đặt cọc sang nhượng thửa đất số 265, tờ bản đồ số 6-4, diện tích 18,7m2, đất tọa lạc tại ấp TKT, thị trấn T, huyện T, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA619593 do bà T đứng tên. Giá chuyển nhượng 300.000.000 đồng, bà Đ đặt cọc trước 40.000.000 đồng, còn lại 260.000.000 đồng khi 02 bên ký hợp đồng chuyển nhượng sẽ thanh toán tại văn phòng công chứng. Thời hạn đặt cọc 30 ngày kể từ ngày đặt cọc. Bà T là người trực tiếp ký hợp đồng đặt cọc.
Ngày 18/11/2018, bà Đ và vợ chồng bà T, ông H2 làm giấy đặt cọc sang nhượng thửa đất số 549, tờ bản đồ số 16, diện tích 2.167m2, đất tọa lạc tại ấp BC, xã BT, huyện T, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA684913 do bà T đứng tên. Giá chuyển nhượng 900.000.000 đồng, bà Đ đặt cọc trước 700.000.000 đồng, còn lại 200.000.000 đồng khi 02 bên ký hợp đồng chuyển nhượng sẽ thanh toán tại văn phòng công chứng. Thời hạn đặt cọc 30 ngày kể từ ngày đặt cọc. Bà T và ông H2 trực tiếp ký hợp đồng đặt cọc.
Ngày 02/02/2019, bà Đ và vợ chồng bà T, ông H2 làm giấy đặt cọc sang nhượng thửa đất số 25, tờ bản đồ số 4-32a, diện tích 173,1m2, đất tọa lạc tại số 563/1 Quốc lộ 1A, phường 4, Thành phố TA, tỉnh Long An theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CO315553 do bà T đứng tên. Giá chuyển nhượng 330.000.000 đồng, bà Đ đặt cọc trước 230.000.000 đồng, còn lại 100.000.000 đồng khi 02 bên ký hợp đồng chuyển nhượng sẽ thanh toán tại văn phòng công chứng. Thời hạn đặt cọc 30 ngày kể từ ngày đặt cọc. Bà T là người trực tiếp ký hợp đồng đặt cọc.
Về hợp đồng vay tài sản: Vào ngày 01/02/2019, bà Đ cho bà T vay 350.000.000 đồng để đáo hạn ngân hàng, hẹn chiều cùng ngày sẽ trả đủ tiền. Bà T có đưa bà Đ giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AI 995076, thửa đất số 156, tờ bản đồ số 9, diện tích 444m2, đất tọa lạc tại xã BT, huyện T, tỉnh Long An do UBND huyện T cấp ngày 19/7/2007 cho bà Lê Thị L. Bà T nói đất này bà T đã mua nhưng chưa sang tên, bà T là người trực tiếp ký hợp đồng vay. Ngày 21-4-2019, bà T có điện thoại cho bà Đ hỏi vay số tiền 50.000.000 đồng và ông H2 trực tiếp đến lấy tiền. Lãi suất thỏa thuận miệng là 1%/tháng, thời hạn vay 02 tuần sẽ trả lại. Ông H2 là người trực tiếp ký hợp đồng vay.
Bà Đ và ông H1 khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà T và ông H2 tiếp tục thực hiện các hợp đồng đặt cọc nói trên, nếu bà T và ông H2 không thực hiện ký kết hợp đồng chuyển nhượng thì trả lại tiền đặt cọc là 1.520.000.000 đồng và phạt cọc tương đương số tiền đặt cọc là 1.520.000.000 đồng, tổng cộng tiền cọc và phạt cọc phải trả là 3.040.000.000 đồng; Buộc vợ chồng ông H2, bà T trả tiền vay gồm nợ gốc là 400.000.000 đồng, tiền lãi tạm tính đến ngày 17/01/2023 theo mức lãi suất 1%/tháng là 187.000.000 đồng, tổng tiền gốc và tiền lãi phải trả là 587.000.000 đồng.
Ông H2 và bà T vắng mặt suốt quá trình tố tụng tại Tòa án cấp sơ thẩm, ngày 22/8/2023 có văn bản trình bày ý kiến như sau: Ông bà không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông H1, bà Đ, xác định không ký hợp đồng đặt cọc cũng như không nhận số tiền đặt cọc của ông H1 và bà Đ; yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định chữ viết và chữ ký cũng như thời gian viết chữ và ký tên trong các văn bản do ông H1 và bà Đ cung cấp để làm căn cứ giải quyết vụ án; yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện cho tranh chấp hợp đồng đặt cọc và tranh chấp hợp đồng vay để giải quyết theo Điều 429 Bộ luật dân sự năm 2015.
Bản án sơ thẩm của TAND huyện T đã tuyên xử:
Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của bà Đ và ông H1 đối với ông H2 và T về hợp đồng đặt cọc. Các đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đ và ông H1 đối với ông H2 và bà T về đòi tài sản (số tiền gốc vay 400.000.000 đồng theo 02 giấy mượn tiền ngày 01/02/2019, ngày 21/4/2019).
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền và thời hạn kháng cáo, quyền thi hành án của đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, nguyên đơn bà Đ và ông H1 kháng cáo.
Bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã tuyên: Hủy một phần Bản án dân sự sơ thẩm của TAND huyện T và chuyển hồ sơ vụ án cho TAND huyện T để giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm về phần giải quyết tranh chấp đặt cọc.
Những vi phạm, thiếu sót của Toà án cấp sơ thẩm về xác định thời hiệu khởi kiện dẫn đến bị hủy án:
Theo nguyên đơn trình bày, giữa nguyên đơn và bị đơn xác lập 04 (bốn) giao dịch đặt cọc vào ngày 01/11/2018, ngày 03/11/2018, ngày 18/11/2018 và ngày 02/02/2019, nhằm đảm bảo giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, có nghĩa là trong các giao dịch đặt cọc phải thể hiện được đầy đủ các nội dung của thửa đất mà các bên sẽ tiến hành giao kết và thực hiện chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng. Tại Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An, Kết luận giám định lại của Phân Viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, đã xác định bà T là người ghi họ tên và nơi thường trú của bà T, ông H2 vào mục bên bán đất (bên nhận cọc), ghi họ tên của bà Đ vào mục bên mua đất (bên đặt cọc) và ghi số tiền mà bên bà Đ đã đặt cọc cho bên bà T; bà T và ông H2 có ký và ghi họ tên tại cuối 04 hợp đồng đặt cọc.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện của các nguyên đơn thừa nhận rằng, các nội dung khác trong hợp đồng đặt cọc số thửa, số tờ bản đồ, diện tích, loại đất, số giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ngày và cơ quan cấp giấy; giá thỏa thuận chuyển nhượng là do bà Đ ghi và việc ghi thêm thông tin này được thực hiện sau khi phía bị đơn đã ký tên trên 04 hợp đồng đặt cọc. Nguyên đơn không có chứng cứ gì chứng minh bị đơn đã biết và đồng ý nội dung ghi thêm nên hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 123 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 132 BLDS năm 2015: “Đối với giao dịch dân sự quy định tại Điều 123 và Điều 124 của Bộ luật này thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế”. Trong trường hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định đã hết thời hiệu khởi kiện nên đình chỉ giải quyết vụ án đối với tranh chấp đặt cọc là không đúng quy định tại khoản 3 Điều 132 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Phương Trúc